IV. CHƯƠNG PĀCITTIYA
(ƯNG ĐỐI TRỊ)
Bạch chư đại đức ni, một trăm sáu mươi sáu điều pācittiya (ưng đối trị) này được đưa ra đọc tụng.
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT
(Nhai tỏi)
[147] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ thỉnh cầu hội chúng tỳ khưu ni về tỏi (nói rằng): “Các ni sư nào có nhu cầu về tỏi, tôi dâng tỏi.” Và người canh ruộng được ra lệnh rằng: “Nếu các tỳ khưu ni đi đến, hãy dâng cho mỗi một vị tỳ khưu ni hai ba bó.”
Vào lúc bấy giờ, trong thành Sāvatthi có lễ hội. Tỏi đã được đem lại bao nhiêu đều không còn. Các tỳ khưu ni đã đi đến nam cư sĩ ấy và đã nói điều này:
- Này đạo hữu, có nhu cầu về tỏi.
- Thưa các ni sư, không có. Tỏi đã được đem lại bao nhiêu đều hết cả. Xin hãy đi đến ruộng.
Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến ruộng đã không biết chừng mực và đã bảo mang đi nhiều tỏi. Người canh ruộng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến ruộng lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi?
Các tỳ khưu ni đã nghe được người canh ruộng ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại không biết chừng mực rồi bảo mang đi nhiều tỏi vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.
[148] Sau đó, khi đã khiển trách tỳ khưu ni Thullanandā bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã thuyết Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, vào thời quá khứ tỳ khưu ni Thullanandā đã là vợ của người bà-la-môn nọ và có ba người con gái là Nandā, Nandavatī, và Sundarīnandā. Này các tỳ khưu, khi ấy người bà-la-môn ấy sau khi qua đời đã sanh vào bào thai của con chim thiên nga nọ. Con chim ấy có bộ lông được cấu tạo hoàn toàn bằng vàng. Nó đã cho các cô ấy mỗi người một lông chim. Này các tỳ khưu, khi ấy tỳ khưu ni Thullanandā (nghĩ rằng): “Con chim thiên nga này cho chúng ta mỗi người một lông chim” nên đã nắm lấy con chim thiên nga chúa ấy và đã vặt trụi lông. Bộ lông của con chim ấy trong khi được mọc lại đều là màu trắng. Này các tỳ khưu, ngày hôm ấy tỳ khưu ni Thullanandā vì quá tham lam khiến vàng đã bị tiêu tan; bây giờ tỏi sẽ bị mất đi.
[149]
Được gì nên hoan hỷ,
bởi kẻ ác quá tham
nắm lấy thiên nga chúa
khiến vàng bị tiêu tan.
[150] Sau đó, khi đã khiển trách tỳ khưu ni Thullanandā bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nhai tỏi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[151] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Tỏi nghĩa là (loại thảo mộc) thuộc về xứ Magadha được đề cập đến.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[152] Tỏi, nhận biết là tỏi, vị ni nhai phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tỏi, có sự hoài nghi, vị ni nhai phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Tỏi, (lầm) tưởng không phải tỏi, vị ni nhai phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải tỏi, (lầm) tưởng là tỏi, vị ni nhai phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải tỏi, có sự hoài nghi, vị ni nhai phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải tỏi, nhận biết không phải tỏi, vị ni nhai thì vô tội.
[153] Trong trường hợp củ hành (palaṇḍuko), củ hành đỏ (bhañjanako), củ hành tây (harītako), lá hẹ (cāpalasuno), nấu chung với xúp, nấu chung với thịt, nấu chung với dầu ăn, rau cải trộn, hương vị làm ngon miệng, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ
(Cạo lông ở chỗ kín)
[154] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư sau khi cạo lông ở chỗ kín rồi lõa thể tắm chung với các cô gái điếm ở một bến tắm nơi giòng sông Aciravatī. Các cô gái điếm phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại cạo lông ở chỗ kín, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được các cô gái điếm ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại cạo lông ở chỗ kín?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư cạo lông ở chỗ kín, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại cạo lông ở chỗ kín vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cạo lông ở chỗ kín thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[155] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chỗ kín nghĩa là hai nách và chỗ tiểu tiện.
Cạo: vị ni cạo (nhổ) chỉ một sợi lông thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni dầu cạo (nhổ) nhiều sợi lông cũng phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[156] Vì nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ BA
(Việc cọ xát bằng lòng bàn tay)
[157] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có hai tỳ khưu ni bị bực bội bởi sự không được thỏa thích mới đi vào phòng trong rồi thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay. Các tỳ khưu ni đã chạy lại vì tiếng động ấy rồi đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này các ni sư, sao các cô lại làm điều nhơ nhớp cùng với người nam vậy?
- Này các ni sư, chúng tôi không làm điều nhơ nhớp cùng với người nam.
Rồi đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Khi thực hiện việc cọ xát bằng lòng bàn tay thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[158] Việc cọ xát bằng lòng bàn tay nghĩa là trong lúc thích thú sự xúc chạm, vị ni đánh (đập, vỗ) vào chỗ tiểu tiện mặc dầu chỉ bằng cánh hoa sen thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[159] Vì nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ
(Áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây)
[160] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nọ trước đây là cung nữ của đức vua đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni. Có tỳ khưu ni nọ bị bực bội bởi sự không được thỏa thích đã đi đến gặp vị tỳ khưu ni ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này ni sư, đức vua lâu lâu mới đến với cô, cô chịu đựng bằng cách nào?
- Này ni sư, với gậy ngắn bằng nhựa cây.
- Này ni sư, gậy ngắn bằng nhựa cây ấy là gì?
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã giải thích gậy ngắn bằng nhựa cây cho vị tỳ khưu ni nọ. Sau đó, vị tỳ khưu ni nọ sau khi áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây rồi không nhớ để rửa và đã quăng bỏ ở một góc. Các tỳ khưu ni khi nhìn thấy vật bị các con ruồi bu quanh đã nói như vầy:
- Việc làm này là của ai?
Cô ni nọ đã nói như vầy:
- Việc làm này là của tôi.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại áp dụng gậy ngắn bằng nhựa cây vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “(Trường hợp) gậy ngắn bằng nhựa cây thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[161] Gậy ngắn bằng nhựa cây nghĩa là làm bằng nhựa cây, làm bằng gỗ, làm bằng bột gạo, làm bằng đất sét. Trong khi thích thú sự xúc chạm, vị ni đưa vào chỗ đường tiểu cho dù chỉ là cánh hoa sen thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[162] Vì nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM
(Việc làm sạch sẽ bằng nước)
[163] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự giữa dân chúng dòng Sākya (Thích ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), tu viện Nigrodha. Vào lúc bấy giờ, bà Mahāpajāpati Gotamī đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở phía dưới gió (nói rằng):
- Bạch Thế Tôn, người nữ có mùi thối.
Khi ấy, đức Thế Tôn (đã nói rằng): “Các tỳ khưu ni hãy áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước” rồi đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Mahāpajāpati Gotamī bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Mahāpajāpati Gotamī đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- Này các tỳ khưu, ta cho phép việc làm sạch sẽ bằng nước đến các tỳ khưu ni.
[164] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ (nghĩ rằng): “Việc làm sạch sẽ bằng nước đã được đức Thế Tôn cho phép” rồi trong khi áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu nên đã gây ra vết thương ở chỗ đường tiểu. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước quá sâu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni trong khi áp dụng việc làm sạch sẽ bằng nước nên áp dụng tối đa hai lóng tay; vượt quá giới hạn ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[165] Việc làm sạch sẽ bằng nước nghĩa là việc rửa ráy chỗ đường tiểu được đề cập đến.
Trong khi áp dụng: trong khi rửa.
Nên áp dụng tối đa hai lóng tay: nên áp dụng tối đa hai khớp ở hai ngón tay.
Vượt quá giới hạn ấy: trong khi thích thú sự xúc chạm, vị ni vượt quá cho dù khoảng cách mảnh bằng sợi tóc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[166] Khi hơn hai lóng tay, nhận biết là đã hơn, vị ni áp dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi hơn hai lóng tay, có sự hoài nghi, vị ni áp dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi hơn hai lóng tay, (lầm) tưởng là kém, vị ni áp dụng thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi kém hai lóng tay, (lầm) tưởng là đã hơn, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi kém hai lóng tay, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi kém hai lóng tay, nhận biết là kém thì vô tội.
[167] Vị ni áp dụng tối đa hai lóng tay, vị ni áp dụng tối đa kém hai lóng tay, vì nguyên nhân bệnh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU
(Đứng gần phục vụ vị tỳ-khưu đang ăn)
[168] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị quan đại thần tên là Ārohanta đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người vợ cũ của vị ấy cũng đã xuất gia ở nơi các tỳ khưu ni. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ấy nhận phần phân phát bữa ăn khi có sự hiện diện của tỳ khưu ni ấy. Sau đó, trong lúc vị tỳ khưu ấy đang thọ thực, vị tỳ khưu ni ấy đã đứng gần với nước uống và quạt rồi nói chuyện thế tục là nói về chuyện đùa giỡn tại gia. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã xua đuổi vị tỳ khưu ni ấy (nói rằng):
- Này sư tỷ, chớ làm như thế. Điều ấy không được phép.
- Trước đây, ông đã làm tôi như vầy và như vầy. Bây giờ, chỉ chừng ấy ông lại không chịu.
Rồi đã đổ tô nước uống lên đầu và đã dùng quạt đánh. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại đánh tỳ khưu?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni đánh vị tỳ khưu, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại đánh tỳ khưu vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Trong khi vị tỳ khưu đang thọ thực, vị tỳ khưu ni nào đứng gần với nước uống hoặc với quạt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[169] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Đối với) vị tỳ khưu: (đối với) người nam đã tu lên bậc trên.
Đang thọ thực: đang thọ thực loại vật thực mềm nào đó thuộc về năm loại vật thực mềm.
Nước uống nghĩa là bất cứ loại nước uống nào.
Quạt nghĩa là bất cứ loại quạt nào.
Đứng gần: vị ni đứng trong khoảng tầm tay thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[170] Người nam đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni đứng gần với nước và quạt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nam đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni đứng gần với nước và quạt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nam đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni đứng gần với nước và quạt thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni sau khi rời xa khỏi tầm tay rồi đứng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Trong lúc (vị tỳ khưu) đang nhai vật thực cứng, vị ni đứng gần thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni đứng gần người nam chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nam chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[171] Vị ni dâng, vị ni bảo (người khác) dâng, vị ni ra lệnh cho người (nữ) chưa tu lên bậc trên, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY
(Lúa còn nguyên hạt)
[172] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ trong khi mùa thu hoạch, các tỳ khưu ni sau khi yêu cầu lúa còn nguyên hạt rồi mang đi đến thành phố. Tại trạm gác cổng, (lính gác nói rằng):
- Thưa các ni sư, hãy đóng góp phần.
Họ đã giữ lại rồi đã thả ra. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến ni viện rồi đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu lúa còn nguyên hạt?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni yêu cầu lúa còn nguyên hạt, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại yêu cầu lúa còn nguyên hạt vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào yêu cầu, hoặc bảo yêu cầu, hoặc xay, hoặc bảo xay, hoặc giã, hoặc bảo giã, hoặc nấu, hoặc bảo nấu lúa còn nguyên hạt rồi thọ thực thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[173] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Lúa còn nguyên hạt nghĩa là lúa gạo sāli, lúa gạo, lúa mạch, lúa mì, kê, đậu, hạt kudrūsaka (bắp?).
(Sau khi) yêu cầu: sau khi tự mình yêu cầu.
(Sau khi) bảo yêu cầu: sau khi bảo người khác yêu cầu.
(Sau khi) xay: sau khi tự mình xay.
(Sau khi) bảo xay: sau khi bảo người khác xay.
(Sau khi) giã: sau khi tự mình giã.
(Sau khi) bảo giã: sau khi bảo người khác giã.
(Sau khi) nấu: sau khi tự mình nấu.
(Sau khi) bảo nấu: sau khi bảo người khác nấu.
(Nghĩ rằng): “Ta sẽ ăn” rồi thọ lãnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[174] Vì nguyên nhân bệnh, vị ni yêu cầu rau cải, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM
(Đổ bỏ vật dơ bên kia bức tường, bên ngoài hàng rào)
[175] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người bà-la-môn nọ là lính được đức vua trả lương (nghĩ rằng): “Ta sẽ cầu xin tiền lương bằng số ấy” rồi gội đầu và đi đến hoàng cung dọc theo ni viện của các tỳ khưu ni. Có vị tỳ khưu ni nọ sau khi đại tiện vào vật đựng rồi trong khi đổ bỏ phía bên kia bức tường đã làm rơi lên trên đầu của người bà-la-môn ấy. Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Những bà cạo đầu khả ố này không phải là nữ sa-môn. Tại sao lại đổ vật đựng chất thải lên đầu? Ta sẽ đốt cháy ni viện của mấy bà này.
Rồi đã cầm lấy cây lửa đi vào ni viện. Có nam cư sĩ nọ đang đi ra khỏi ni viện đã nhìn thấy người bà-la-môn ấy cầm cây lửa đang đi vào ni viện, sau khi nhìn thấy đã nói với người bà-la-môn ấy điều này:
- Này ông, vì sao ông lại cầm cây lửa và đi vào ni viện?
- Này ông, những bà cạo đầu khả ố này đổ vật đựng chất thải lên đầu tôi. Tôi sẽ đốt cháy ni viện của mấy bà này.
- Này ông, hãy đi. Điều này là điều may mắn. Và ông sẽ đạt được số tiền lương ấy là một ngàn.
Khi ấy, người bà-la-môn ấy đã gội đầu rồi đi đến hoàng cung và đã đạt được số tiền lương ấy là một ngàn. Sau đó, nam cư sĩ ấy đã đi vào ni viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni rồi đã chê trách. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân phía bên kia bức tường?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đổ bỏ phân phía bên kia bức tường, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân phía bên kia bức tường vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ phân hoặc nước tiểu hoặc rác rến hoặc thức ăn thừa phía bên kia bức tường hoặc phía bên kia hàng rào thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[176] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Phân nghĩa là chất thải được đề cập đến.
Nước tiểu nghĩa là nước thải được đề cập đến.
Rác rến nghĩa là rác quét dọn được đề cập đến.
Thức ăn thừa nghĩa là các vật được nhai thừa, hoặc các mẩu xương, hoặc nước dơ được đề cập đến.
Bức tường nghĩa là có ba loại tường: tường gạch, tường đá, tường gỗ.
Hàng rào nghĩa là có ba loại hàng rào: hàng rào gạch, hàng rào đá, hàng rào gỗ.
Phía bên kia bức tường: phía đối nghịch của bức tường.
Phía bên kia hàng rào: phía đối nghịch của hàng rào.
Đổ bỏ: vị ni mình đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo đổ bỏ: vị ni ra lệnh người khác đổ bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đổ nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[177] Vị ni đổ bỏ sau khi đã xem xét, vị ni đổ bỏ nơi không phải là lối đi, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN
(Đổ bỏ vật dơ lên cỏ cây xanh)
[178] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ruộng lúa mạch của người bà-la-môn nọ là kề bên ni viện của các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa ở trong ruộng. Khi ấy, người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại làm dơ ruộng lúa mạch của chúng tôi?
Các tỳ khưu ni đã nghe được người bà-la-môn ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại đổ bỏ phân, nước tiểu, rác rến, và thức ăn thừa lên cỏ cây xanh vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ phân hoặc nước tiểu hoặc rác rến hoặc thức ăn thừa lên cỏ cây xanh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[179] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là vị “tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Phân nghĩa là chất thải được đề cập đến.
Nước tiểu nghĩa là nước thải được đề cập đến.
Rác rến nghĩa là rác quét dọn được đề cập đến.
Thức ăn thừa nghĩa là các vật được nhai thừa, hoặc các mẩu xương, hoặc nước dơ được đề cập đến.
Cỏ cây xanh nghĩa là loại hạt và rau cải nào được trồng để làm thực phẩm sử dụng cho loài người.
Đổ bỏ: vị ni tự mình đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Bảo đổ bỏ: vị ni ra lệnh người khác đổ bỏ thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Được ra lệnh một lần, mặc dầu (vị kia) đổ nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya (ưng đối trị).
[180] Cỏ cây xanh, nhận biết là cỏ cây xanh, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Cỏ cây xanh, có sự hoài nghi, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Cỏ cây xanh, (lầm) tưởng không phải là cỏ cây xanh, vị ni đổ bỏ hoặc bảo đổ bỏ thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là cỏ cây xanh, (lầm) tưởng là cỏ cây xanh, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là cỏ cây xanh, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Không phải là cỏ cây xanh, nhận biết không phải là cỏ cây xanh thì vô tội.
[181] Vị ni đổ bỏ sau khi đã xem xét, vị ni đổ bỏ ở góc ruộng, vị ni đổ bỏ sau khi hỏi ý sau khi xin phép người chủ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN TỎI - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI
(Đi để xem vũ ca tấu nhạc)
[182] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha (Vương Xá), Veḷuvana (Trúc Lâm), nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, tại thành Rājagaha có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đã đi để xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao các tỳ khưu ni lại đi để xem vũ ca tấu nhạc, giống như các cô gái tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đi để xem vũ ca tấu nhạc?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư đi để xem vũ ca tấu nhạc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại đi để xem vũ ca tấu nhạc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào đi để xem vũ hoặc ca hoặc tấu nhạc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[183] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Vũ nghĩa là bất cứ loại vũ gì.
Ca nghĩa là bất cứ bài ca gì.
Tấu nhạc nghĩa là bất cứ loại tấu nhạc gì (trống, kèn, đờn, v.v...).
Vị ni đi để xem thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng tại chỗ ấy rồi nhìn hoặc lắng nghe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi rời khỏi tầm nhìn, vị ni lại nhìn hoặc lắng nghe lần nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni đi để xem mỗi một (môn biểu diễn) thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Đứng tại chỗ ấy rồi nhìn hoặc lắng nghe thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi rời khỏi tầm nhìn, vị ni lại nhìn hoặc lắng nghe lần nữa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[184] Vị ni đứng ở trong ni viện rồi nhìn thấy hoặc nghe, sau khi đi đến chỗ đứng hoặc chỗ ngồi hoặc chỗ nằm của vị tỳ khưu ni thì họ vũ hoặc họ ca hoặc họ tấu nhạc, vị ni nhìn thấy hoặc nghe trong khi đi ngược chiều, khi có việc cần phải làm vị ni đi rồi nhìn thấy hoặc nghe, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Tỏi là phần thứ nhất.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ NHẤT
(Đứng chuyện trò với người nam trong bóng tối)
[185] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đã đi đến thành Sāvatthi vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy cùng người nam ấy một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nam với một nữ đứng chung hoặc chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[186] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong bóng tối ban đêm: khi mặt trời đã lặn.
Không có đèn: không có ánh sáng.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nam với một nữ: là cả người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc chuyện trò: vị ni đứng chuyện trò trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni đứng chung hoặc chuyện trò với dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[187] Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò lúc đang bận tâm chuyện khác, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ NHÌ
(Đứng chuyện trò với người nam ở chỗ được che khuất)
[188] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đã đi đến thành Sāvatthi vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán cùng người nam một nam với một nữ đứng chung chuyện trò ở trong bóng tối ban đêm không có đèn” nên cùng chính người nam ấy một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở chỗ được che khuất. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở chỗ được che khuất?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở chỗ được che khuất, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở chỗ được che khuất vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nam với một nữ đứng chung hoặc chuyện trò ở chỗ được che khuất thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[189] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chỗ được che khuất nghĩa là chỗ được che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật gì.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nam với một nữ: là người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc chuyện trò: vị ni đứng chuyện trò trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni đứng chung hoặc chuyện trò với dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[190] Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò lúc đang bận tâm chuyện khác, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ BA
(Đứng chuyện trò với người nam ở khoảng trống)
[191] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nam là thân quyến của vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī từ thôn làng đã đi đến thành Sāvatthi vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán cùng người nam một nam với một nữ đứng chung chuyện trò ở chỗ được che khuất” nên đã cùng chính người nam ấy một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở khoảng trống. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở khoảng trống?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở khoảng trống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung và chuyện trò ở khoảng trống vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào cùng người nam một nam với một nữ đứng chung hoặc chuyện trò ở khoảng trống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[192] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Khoảng trống nghĩa là không bị che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc là không bị che khuất bởi bất cứ vật gì.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng chung.
Một nam với một nữ: là người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc chuyện trò: vị ni đứng chuyện trò trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni đứng chung hoặc chuyện trò với dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[193] Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò lúc đang bận tâm chuyện khác, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ TƯ
(Đứng chuyện trò với người nam ở đường xá)
[194] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā cùng người nam một nam với một nữ đứng chung, chuyện trò ở đường có xe cộ, ở ngõ cụt, ở giao lộ, lại còn thầm thì vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì nữa.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung, chuyện trò ở đường có xe cộ, ở ngõ cụt, ở giao lộ, lại còn thầm thì vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì nữa?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cùng người nam một nam với một nữ đứng chung, chuyện trò ở đường có xe cộ, ở ngõ cụt, ở giao lộ, lại còn thầm thì vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cùng người nam một nam với một nữ đứng chung, chuyện trò ở đường có xe cộ, ở ngõ cụt, ở giao lộ, lại còn thầm thì vào tai và đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì nữa? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào ở đường có xe cộ, hoặc ở ngõ cụt, hoặc ở giao lộ cùng người nam một nam với một nữ hoặc đứng chung, hoặc chuyện trò, hoặc thầm thì vào tai, hoặc đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[195] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Đường có xe cộ nghĩa là đường có xe kéo hàng được đề cập đến.
Ngõ cụt nghĩa là họ đi vào bằng chính lối nào thì đi ra bằng chính lối đó.
Giao lộ nghĩa là nơi ngã tư đường được đề cập đến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng đứng chung nói chuyện.
Cùng: cùng với.
Một nam với một nữ: là người nam và vị tỳ khưu ni.
Hoặc đứng chung: vị ni đứng trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc chuyện trò: vị ni đứng chuyện trò trong tầm tay của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc thầm thì vào tai: vị ni nói vào lỗ tai của người nam thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Hoặc đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì: vị ni có ý định hành xử sai nguyên tắc rồi đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi vị ni (kia) đang rời khỏi tầm nhìn hoặc tầm nghe thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Khi đã rời khỏi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Sau khi tách rời khỏi tầm tay, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni đứng chung hoặc chuyện trò với dạ-xoa nam, hoặc với ma nam, hoặc với người nam vô căn, hoặc với thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[196] Có bất cứ người nữ nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị ni không mong mỏi chỗ kín đáo, vị ni đứng chung hoặc chuyện trò lúc đang bận tâm chuyện khác, vị ni không có ý định hành xử sai nguyên tắc, vị ni đuổi đi vị tỳ khưu ni thứ nhì khi có việc cần làm, [1] vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ NĂM
(Rời khỏi nhà gia chủ không thông báo)
[197] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có tỳ khưu ni nọ là vị thường tới lui với các gia đình và là vị nhận bữa ăn thường kỳ của gia đình nọ. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ni ấy đã mặc y cầm y bát rồi đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn rồi đã ra đi không thông báo chủ nhân. Người nữ nô tỳ của gia đình ấy trong lúc quét nhà đã bỏ chỗ ngồi ấy bên trong cái thùng. Trong khi không nhìn thấy chỗ ngồi ấy, mọi người đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này:
- Thưa ni sư, chỗ ngồi ấy đâu rồi?
- Này các đạo hữu, tôi không nhìn thấy chỗ ngồi ấy.
- Thưa ni sư, hãy đưa ra chỗ ngồi ấy.
Họ đã chê trách và đã ngưng lại bữa ăn thường kỳ. Sau đó, những người ấy trong khi làm sạch sẽ nhà đã nhìn thấy chỗ ngồi ấy ở bên trong cái thùng nên đã xin lỗi vị tỳ khưu ni ấy và thiết lập lại bữa ăn thường kỳ. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi lại ra đi không thông báo chủ nhân?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi rồi ra đi không thông báo chủ nhân, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi lại ra đi không thông báo chủ nhân vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi rồi ra đi không thông báo chủ nhân thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[198] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trước bữa ăn nghĩa là từ lúc mặt trời mọc cho đến giữa trưa.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ (khattiya), gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đã đến nơi ấy.
Chỗ ngồi nghĩa là chỗ của ghế nệm lông thú được đề cập đến.
(Sau khi) ngồi xuống: sau khi ngồi xuống ở nơi ấy.
Ra đi không thông báo chủ nhân: không thông báo cho người có sự hiểu biết ở gia đình ấy. Trong khi vượt qua mái che mưa thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Ở ngoài trời, trong khi vượt qua vùng lân cận thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[199] Khi chưa thông báo, nhận biết là chưa thông báo, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa thông báo, có sự hoài nghi, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa thông báo, (lầm) tưởng là đã thông báo, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là chỗ của ghế nệm lông thú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã thông báo, (lầm) tưởng là chưa thông báo, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã thông báo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã thông báo, nhận biết là đã thông báo thì vô tội.
[200] Vị ni đi có thông báo, ở chỗ ngồi không thể di động, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ SÁU
(Nằm ngồi ở trong nhà không hỏi ý gia chủ)
[201] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân rồi ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi. Mọi người trong khi khiêm tốn đối với tỳ khưu ni Thullanandā nên không ngồi xuống cũng không nằm xuống. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao ni sư Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi?
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân rồi ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân lại ngồi xuống và nằm xuống trên chỗ ngồi vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đình sau bữa ăn không hỏi ý chủ nhân rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[202] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Sau bữa ăn nghĩa là khi đã quá giữa trưa cho đến khi mặt trời lặn.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đã đến nơi ấy.
Không hỏi ý chủ nhân: không hỏi ý người là chủ nhân ở gia đình ấy để cho phép.
Chỗ ngồi nghĩa là chỗ của ghế nệm lông thú được đề cập đến.
Ngồi xuống: vị ni ngồi xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nằm xuống: vị ni nằm xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[203] Khi chưa hỏi ý, nhận biết là chưa hỏi ý, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, có sự hoài nghi, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, (lầm) tưởng là đã hỏi ý, vị ni ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Không phải là chỗ của ghế nệm lông thú thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, (lầm) tưởng là chưa hỏi ý, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, nhận biết là đã hỏi ý thì vô tội.
[204] Vị ni có hỏi ý rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống trên chỗ ngồi, ở chỗ được quy định thường xuyên, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ BẢY
(Trải ra chỗ nằm ở trong nhà không hỏi ý gia chủ)
[205] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu ni trong khi đi đến thành Sāvatthi trong xứ Kosala nhằm lúc chiều tối đã ghé vào ngôi làng nọ và đi đến gia đình bà-la-môn nọ xin chỗ ngụ. Khi ấy, người nữ bà-la-môn đã nói với các tỳ khưu ni ấy điều này:
- Này các ni sư, hãy chờ đến khi ông bà-la-môn về.
Các tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Đến khi ông bà-la-môn về” rồi đã trải ra chỗ nằm; một số đã ngồi xuống một số đã nằm xuống. Sau đó, người bà-la-môn ấy đã trở về vào ban đêm và đã nói với người nữ bà-la-môn điều này:
- Những cô này là ai?
- Thưa ông, là các tỳ khưu ni.
- Mấy người hãy lôi những bà cạo đầu khả ố này ra.
Rồi đã cho người lôi ra khỏi nhà. Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã đi đến thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình vào lúc trời tối không hỏi ý chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình vào lúc trời tối không hỏi ý chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình vào lúc trời tối không hỏi ý chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống và nằm xuống vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đình vào lúc trời tối không hỏi ý chủ nhân lại trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[206] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Lúc trời tối nghĩa là khi mặt trời đã lặn cho đến lúc rạng đông.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình sát-đế-lỵ, gia đình bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đã đến nơi ấy.
Không hỏi ý chủ nhân: không hỏi ý người là chủ nhân ở gia đình ấy để cho phép.
Chỗ nằm nghĩa là ngay cả tấm trải nằm bằng lá.
(Sau khi) trải ra: sau khi tự mình trải ra.
(Sau khi) bảo trải ra: sau khi bảo người khác trải ra.
Ngồi xuống: vị ni ngồi xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Nằm xuống: vị ni nằm xuống trên chỗ ấy thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[207] Khi chưa hỏi ý, nhận biết là chưa hỏi ý, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, có sự hoài nghi, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi chưa hỏi ý, (lầm) tưởng là đã hỏi ý, vị ni trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Khi đã hỏi ý, (lầm) tưởng là chưa hỏi ý, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Khi đã hỏi ý, nhận biết là đã hỏi ý thì vô tội.
[208] Vị ni có hỏi ý sau đó trải ra hoặc bảo trải ra chỗ nằm rồi ngồi xuống hoặc nằm xuống, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ TÁM
(Than phiền với vị khác)
[209] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī phục vụ Bhaddā Kāpilānī rất nghiêm chỉnh. Bhaddā Kāpilānī đã nói với các tỳ khưu ni điều này:
- Này các ni sư, tỳ khưu ni này phục vụ tôi rất nghiêm chỉnh. Tôi sẽ cho cô này y.
Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác rằng:
- Này ni sư, nghe nói tôi không phục vụ sư thầy nghiêm chỉnh. Nghe nói sư thầy sẽ không cho tôi y.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào do hiểu sai do xét đoán sai rồi than phiền với vị khác thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[210] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Do hiểu sai: do được hiểu cách khác.
Do xét đoán sai: do được xét đoán cách khác.
Với vị khác: vị ni than phiền với vị đã tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[211] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni than phiền thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni than phiền thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng chưa tu lên bậc trên, vị ni than phiền thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni than phiền với người nữ chưa tu lên bậc trên thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[212] Vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ CHÍN
(Nguyền rủa bản thân và người khác)
[213] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni trong khi không nhìn thấy đồ đạc của bản thân đã nói với tỳ khưu ni Caṇḍakālī điều này:
- Này ni sư, ni sư có nhìn thấy đồ đạc của chúng tôi không?
Tỳ khưu ni Caṇḍakālī phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Chẳng lẽ chính tôi là nữ đạo tặc hay sao? Chẳng lẽ chính tôi là kẻ không biết xấu hổ hay sao? Những ni sư nào trong khi không nhìn thấy đồ đạc của bản thân những vị ni ấy đã nói với tôi như vầy: “Này ni sư, ni sư có nhìn thấy đồ đạc của chúng tôi không?” Này các ni sư, nếu tôi lấy đồ đạc của các cô, tôi không còn là nữ sa-môn, tôi bị tiêu hoại Phạm hạnh, tôi bị sanh vào địa ngục. Còn cô nào đã nói sai trái về tôi như thế, chính cô ấy hãy không còn là nữ sa-môn, hãy bị tiêu hoại Phạm hạnh, hãy bị sanh vào địa ngục.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī lại nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī lại nguyền rủa bản thân luôn cả người khác về địa ngục và cả Phạm hạnh nữa vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào nguyền rủa bản thân hoặc người khác về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[214] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Bản thân: đối với cá nhân mình.
Người khác: vị ni nguyền rủa vị đã tu lên bậc trên về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
[215] Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni nguyền rủa về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).
Vị ni nguyền rủa về sự sanh làm loài thú hoặc về cảnh giới ngạ quỷ hoặc về phần số xui của loài người thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Vị ni nguyền rủa người nữ chưa tu lên bậc trên về địa ngục hoặc về Phạm hạnh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[216] Vị ni (nói để) đề cập đến ý nghĩa, vị ni (nói để) đề cập đến Pháp, vị ni (nói) nhắm đến sự giảng dạy, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
PHẦN BÓNG TỐI - ĐIỀU HỌC THỨ MƯỜI
(Tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc)
[217] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakālī sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni lại tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc.
Các tỳ khưu ni ít ham muốn, ...(như trên)..., các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao ni sư Caṇḍakālī lại tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc?
...(như trên)...
- Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakālī tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakālī lại tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỳ khưu ni nào tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị).”
[218] Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ...(như trên)...
Tỳ khưu ni: ...(như trên)... vị ni này là “vị tỳ khưu ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Chính mình: đối với cá nhân mình. Vị ni sau khi đánh đấm rồi khóc lóc thì phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị ni đánh không khóc lóc thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Vị ni khóc lóc không đánh thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).
[219] Do sự mất mát về thân quyến, hoặc do sự mất mát về vật dụng, hoặc do sự bất hạnh vì bệnh hoạn, hoặc khi được hỏi đến vị ni khóc lóc không đánh, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
Phần Bóng Tối là phần thứ nhì.
*******
[1] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Khi có việc cần làm là nhằm mục đích hoàn thành công việc rút thẻ cho bữa trai phạn, v.v... hoặc mục đích sắp xếp lại sự bề bộn ở trong trú xá.”
-ooOoo-
03-05-2019 - 1087 lượt xem